Nhạc phẩm của Văn Cao: Hơi thở của cuộc sống, tinh hoa của thời đại
Năm 1992, vào ngày sinh nhật nhạc sĩ Văn Cao tròn 70 tuổi, nhà phê bình Đặng Tiến đã viết một bài đánh giá về những nhạc phẩm của ông. Bài viết có tựa “Sóng ngàn kháng chiến”.
Song song với những tình khúc đầu mùa, thời kỳ mà nhạc sĩ Phạm Duy gọi bằng tiếng Pháp là le temps de l’innocence – thời thơ ngây, đó là vào những năm đầu thập niên 1940, một nhạc trào khác phát triển mạnh không kém là nhạc hùng, những bản nhạc khỏe, vui của hướng đạo, học sinh. Những bài hát ấy đề cao lịch sử, đất nước, sức khỏe,… khởi nguồn từ nhóm Đồng Vọng của Hoàng Quý tại Hải Phòng rồi đến Hùng Lân, Lưu Hữu Phước.
Nhạc sĩ Văn Cao là người mang tư tưởng tự do và tiến bộ, trong thể loại nào ông cũng giữ được nét đặc biệt ấy. Văn Cao yêu lịch sử nhưng không nô lệ: Tự hào về quá khứ đất nước, anh vẫn xem như là một kỷ niệm đã qua, cần phải được vượt qua để tồn tại và tiến hóa.
Trận Đống Đa là chiến thắng thần tốc, oanh liệt nhất của chiến thuật Việt Nam, của chiến tranh nhân dân và phong kiến, của bạo lực và chính nghĩa, của chiến lược thuần túy. Nhưng Văn Cao không bị choáng ngợp trước đỉnh cao lịch sử ấy, ngược lại trong ca khúc “Gò Đống Đa”, ông khẳng định:
“Thề quyết phấn đấu
Đồng tâm hy sinh
Làm sao cho hơn thời xưa
Rồi cất sức sống ngày mai…”
Trong “Thăng Long hành khúc ca” ông cũng nhắc lại chiến công Tây Sơn và nhìn về toàn bộ lịch sử dân tộc qua hình ảnh cố đô:
“Thăng Long thành xưa
Thăng Long ngày nào
Cờ khoe sắc phất phới”.
Nhưng hiện tại thì khác. Việt Nam khi ấy là một nước nô lệ lầm than, lạc hậu. Hà Nội là một thủ phủ thuộc địa “bao năm qua khắp chốn cũ cũng đã mất hết tinh anh” muốn “dân chúng yên vui”, thậm chí sống oai hùng và tiếp nối với truyền thống thì phải biết đổi mới, tiếp thu khoa học và dân chủ, phải mở trái tim khối óc “chờ gió mới bay về…”.
Sông Bạch Đằng lại là một chủ đề khác. Chiến công hiển hách này được nhiều người đưa ra như một tiêu chuẩn, một giá trị viên miễn. Nhạc sĩ Hoàng Quý – là đồng hương, là bạn và là thầy nhạc của Văn Cao viết:
“Đến bây giờ mỗi khi đi trên sông Bạch Đằng
Thì anh em ta vui ca rằng:
Trên sông Bạch Đằng dân Nam hò reo”
Hay nhạc sĩ Lưu Hữu Phước cũng cho rằng “Đằng Giang vẫn sáng để cho nòi going soi chung”.
Trong khi đó, nhạc sĩ Văn Cao trên con sông quê hương lại mang nỗi buồn man mác: “Bạch Đằng giang sầu mơ bên lau xanh
Với bến nước x a xôi
Buồn ai đứng nhìn con sông xanh biếc ngày xưa
Mà nước mắt mờ rơi…”.
(Chiều buồn trên Bạch Đằng Giang)
Đây là nét u buồn lãng mạn vẫn cố hữu trong âm nhạc của Văn cao, nhưng không thể phủ nhận tư tưởng cầu tiến và duy tân của người nhạc sĩ này.
Thời đó, nhạc sĩ Văn Cao đã có một cái nhìn rất thoáng, rất rộng về dân tộc trong một cộng đồng nhân loại lớn lao. Trong “Công nhân Việt Nam” sáng tác năm 1944, bài hát chính thức của Tổng công đoàn Việt Nam hiện nay, Văn Cao viết:
“Ngoài kia lời non nước đang nhắc ta
Mau nhấc cao giống nòi
Yêu mến muôn giống người
Tranh đầu cuối cùng
Là đời sống mới dâng xa”.
Một tình cảm tiến bộ và lành mạnh. Tư tưởng Văn Cao cũng đã từng một thời “lưu luyến mấy cung u huyền” trong “tiếng hát vọng ngàn xưa còn rung”. Nhưng giờ đây, tâm hồn hoài cổ ấy đã lao vào những kỷ niệm vang vang hùng khí “Bừng nghe dư âm mênh mông khúc anh hùng ca ra nơi biên cương. Bao chiến mã lên đường…”. Nhưng cái bất ngờ hơn cả là Văn Cao không dừng lại ở những “dư âm mênh mông”, ông còn đòi:
“Lập quyền dân tiến lên Việt Nam
Đòi hạnh phúc đắp xây tự do”.
Về nhạc thuật, nhạc sĩ Phạm Duy đánh giá rất cao vào “Chiến sĩ Việt Nam” của Văn Cao: “Với tài năng tuyệt vời của một hoạ sĩ, Văn Cao vẽ ra cảnh chiến sĩ Việt Nam phi ngựa trên đường xa (…). Tài soạn nhạc của anh tới thời điểm này đã bỏ xa những nhạc sĩ chuyên nghiệp khác, đừng nói gì tới những tay soạn nhạc tài tử như Nguyễn Đình Thi hay Đỗ Nhuận. Trong khi nhạc hùng của Hoàng Quý, Lưu Hữu Phước dù hay đến mấy cũng không vượt ra ngoài khuôn khổ của những ca khúc rất chân phương, rất cân đối, rất sách vở… thì Văn Cao đã trổ tài soạn hành khúc như bài “Chiến sĩ Việt Nam” này. Câu nhạc thứ hai dài dằng dặc, với nhịp điệu dồn dập, thay đổi hơi thở luôn luôn khiến cho câu ca có sức sống mãnh liệt: Ngựa phi nơi xa xa kìa nghe súng vang bên trời điệu kèn rộn ràng. Tiếp tới là sự nhắc lại nhạc đề (…). Cái hay của tác giả là đã chuẩn bị để vào cuối câu nhạc sẽ chuyển qua một nhạc đề khác, để chứng tỏ sự phong phú của bàn tay sáng tác”. (Trích Văn Học, số tháng 10, 1986).
“Dân quân du kích cách mạng bừng mùa thu
Sao vương bóng cờ bay trên chiến khu…”
Đây là những hình đẹp đầu tiên của cách mạng Việt Nam ta, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Người dân sống thực tại như một giấc mơ, sống lịch sử như một nghệ thuật, sống đất nước như một bích họa.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đưa dân tộc vào một khúc quanh. Toàn quốc kháng chiến, Hà Nội chiến đấu, mùa xuân về giữa những chiến hào xa. Văn Cao ra đi, rạo rực phơi phới với hai mối tình lớn trong đời: đất nước và người yêu. Xuân kháng chiến cũng là xuân trăng mật. Bài hát “Làng tôi” mang những âm hưởng đằm thắm, dịu dàng, phấn khởi chưa từng thấy trong những ca khúc trước đó của ông. Văn Cao vốn là người kiệm tâm sự, kín đáo về đời tư nên mãi đến năm 1974, ông mới có bài thơ viết cho người bạn đời mang tên “Khuôn mặt em”, nhưng cũng không lấy gì làm rõ nét, chúng tôi chỉ phỏng đoán dựa trên 2 câu cuối: “Ôi khuôn mặt sáng trong và bình lặng/ Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng”.
Tuy là bài ca chiến đấu “Làng tôi theo đoàn quân du kích…” nhưng âm hưởng Văn cao mang đến lại là sự lung linh, dịu mát trong niềm nhung nhớ mênh mông. Đồng quê cũng có lúc rộn lên với “Ngày mùa” tươi vui: “Ngày mùa vui thôn trang, lúa reo như hát mừng…”.
Hình tượng lý tưởng “súng tì tay anh đứng, em ngừng liềm trông sang” có thể không phản ánh những gian lao của những năm tháng chống Pháp, nhưng lại diễn tả ước mơ của người nghệ sĩ trong cuộc kháng chiến.
Tuy nhiên, phải đợi đến trường ca “Sông Lô” thì nhạc sĩ Văn Cao mới nói lên được trọn vẹn vẻ đẹp của quê hương xứ xở, hoang sơ mà thân mật, đơn giản nhưng hùng tráng, đẹp như một bức tranh.
“Sông Lô sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u
Thu ru bến sóng vàng từng nhà mờ biếc chìm một màu khói thu”.
Những nét đạm thanh ẩn hiện trên màu nền mờ nhạt, khi nhịp câu ca loang dần ra xa, những hình ảnh liên tiếp tạo ra không gian mênh mông, huyền bí. Không khí lạnh lẽo bồng bừng lên ngọn lửa chiến đấu: “Sông Lô sóng ngàn kháng chiến cháy bờ lao thưa”.
Tiếp đến là ánh bình minh, thiên nhiên như hồi quang ý chí con người: “Ai qua bến nắng hồng lặng nhìn màu nước sông Lô”. Rồi vũ trụ bỗng chan hòa âm thanh, bao la, rộn rã trong tiếng sóng reo vi vu: “Sông mênh mông như bát ngát hát/ Bao rừng thu như bát ngát cười”.
Lời hát say sưa ngợi ca đất nước và con người nhắc chúng ta về khí thế lúc đó, như trong thơ Nguyễn Đình Thi có viết: “Gíó thổi rừng tre phất phới. Trong biếc nói cười thiết tha” hay trong tuỳ bút kháng chiến của Nguyễn Tuân viết: “Chúng tôi đang mơ chung một cơn hoả mộng…”.
Văn Cao vẫn bám vào hiện thực, trong chiến thắng hân hoan, nhạc sĩ nghĩ ngay đến đời sống thường nhật của người dân: “Phan Lương vui bóng thuyền, lều dựng lên ven sông “. Phút vẻ vang, hùng tráng ấy là chuyện cần phải làm, để bảo vệ cuộc sống tầm thường trong trần gian êm ả.
“Dòng sông Lô trôi
Mùa xuân tới
Nước băng qua ngàn
Nước in ven bờ xanh ôm bóng tre”.
Trận Sông Lô năm 1947 được coi là chiến công vang dội đầu tiên của quân đội Việt Nam non trẻ, đặc biệt là đối với ngành pháo binh mới còn phôi thai. Chiến thắng sông Lô ngoài tâm quan trọng về quân sự thì còn có tác dụng tâm lý lớn lao, gợi cảm hứng cho nhiều văn nghệ sĩ thời ấy.
Về nhạc thuật, trường ca “Sông Lô” được xem là đỉnh cao trong sự nghiệp của nhạc sĩ Văn Cao. Ông đã vượt khỏi những tiết tấu đơn giản của ca khúc, đi tới một bản hợp tấu dài hơi với nhiều tầng lớp nhịp độ khác nhau, lôi cuốn người nghe theo giai điệu, lời theo, màu sắc tự như một dòng sông lớn.
Niềm hăng say có khiến người nhạc sĩ chủ quan và lạc quan quá mức, như Nguyễn Tuân mơ về những “khải hoàn môn kết toàn bằng bích đào” hay Văn Cao trong giai đoạn kháng chiến gian lao năm 1949 đã đòi “Tiến về Hà Nội”.
“Năm cửa ô đón mừng đoàn quân trở về
Như đài hoa đón mừng
Nở năm cánh đào chảy dòng sương sớm long lanh
Ôi phố phường Hà Nội xưa yêu dấu
những bông hoa ngày mai
Đón tương lai vào tay”.
Giọng ca đã khác với “bóng xưa ngàn năm/hồ phai khi tàn mơ”, nhưng vẫn sắt đá với một niềm tin mãnh liệt “ôi Thăng Long ngày mai/ xây đắp dưới vinh quang bằng chí khí anh hùng”.
Từ những nhận xét này, chúng ta có thể nới rộng tầm nhìn khi đánh giá về những tác phẩm của Văn Cao về nhạc, họa cũng như thơ. Đó là những tác phẩm phong phú, đa dạng và lúc nào cũng đặc sắc, thủy chung với vài ba ý chính và một phong cách riêng. Gắn bó với thời đại, nhạc sĩ Văn cao thường xuyên tra vấn thân phận làm người trong và ngoài lịch sử.
Thơ, nhạc, hoạ của Văn Cao là những triều sóng triền miên, lớp lớp, xô buồn vui của đại dương vào với đất liền. Tác phẩm của Văn Cao là hơi thở cuộc sống, là ngất ngây giông bão và là những đằm thắm trăng sao. Nó chắt lọc nhân phẩm con người để dựng lên tinh hoa của thời đại.
Tác phẩm Văn Cao, còn lại là đốm lửa Văn Cao. Đốm lửa đâu đây trong bếp nghèo bến Cảng, trong núi rừng Việt Bắc hay trong cõi biển rộng trời xa. Một ngọn lửa không quay đầu theo gió.
Văn Cao, ngọn lửa bập bùng trong ý thức chúng ta.
Đặng Tiến
(15/11/1992 – Viết cho ngày sinh nhật Văn Cao 70 tuổi)
Nhà phê bình Đặng Tiến sinh năm 1940 tại làng An Trạch, Hòa Vang, Đà Nẵng, tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ông từng đi dạy tại THPT Yersin ở Đà Lạt. Ông bắt đầu viết phê bình từ năm 1960, đăng trên các tạp chí như Mai, Văn, Tân văn. Ông từng xuất bản cuốn Vũ trụ thơ (1972), Vũ trụ thơ II (2008), Thơ - Thi pháp và chân dung (2009). Ông là bạn của nhiều văn nghệ sĩ như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tác giả Phạm Công Thiện, nhà thơ Hoài Khanh, nhà văn, dịch giả Bửu Ý, họa sĩ Trịnh Cung.
Xem thêm: Nhạc sĩ Phạm Duy: Văn Cao trong tôi!
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận