Nhạc sĩ Văn Cao – Bậc tài danh sống mãi trong hồn dân tộc
Giáo sư Hà Minh Đức nguyên Viện trưởng Viện Văn học, nguyên chủ nhiệm Khoa báo chí Đại học Tổng hợp Hà Nội từng có một thời gian tiếp xúc với nhạc sĩ Văn Cao ở bệnh viện. Chính cơ duyên này đã giúp ông hiểu thêm về con người, lối sống và suy nghĩ của một bậc tài danh của dân tộc.
Chuyện xảy ra đã lâu, song tôi vẫn còn nhớ như một kỷ niệm khó quên trong đời. Tôi bị áp xe, cánh tay sưng, người sốt cao, phải vào Bệnh viện Việt Xô nằm. Tôi nằm ở khu B, không ngừng lại cùng phòng với nhạc sĩ Văn Cao. Hồi ấy, lẽ ra với tài năng và vị trí của ông thì ông phải nằm ở khu A, nhưng chẳng hiểu sao ông vẫn nằm ở khu B như mọi người. Giường ông gần cửa ra vào, còn tôi nằm ở góc sâu cuối phòng. Bác sĩ khám và bảo tôi cần tiêm kháng sinh loại nặng, nếu không thì phải mổ. Tôi mệt nên thiêm thiếp ngủ, lúc tỉnh dậy cánh tay lại đau nhức.
Tôi để ý thấy nhạc sĩ Văn Cao thỉnh thoảng lại ngồi dậy tiếp khách. Người vào thăm ông đông lắm. Ai đến ông cũng nói chuyện vui vẻ. Tôi không biết ông bị bệnh gì, thỉnh thoảng thấy bác sĩ phòng trực lại vào ngồi nói chuyện với ông, hết lời ca ngợi tài năng của ông. Dưới chân giường bệnh của nhạc sĩ Văn Cao khi ấy là một dãy các chai rượu đã uống hết. Bác sĩ nhìn mấy chai rượu, bảo: “Xin cụ bớt uống rượu cho, như thế bệnh mới mau lành được”. Nhạc sĩ Văn Cao cười, nói: “Không có rượu bệnh tôi lại tăng thêm đấy. Tôi quen với nó rồi, xin bác sĩ thông cảm cho”.
Vào một buổi gần trưa nọ, khi tôi đang thiu thiu ngủ thì nghe tiếng gọi: “Ông Đức cũng nằm đây à?”. Tôi mở mắt ra thì thấy anh Văn Tâm, bạn học cùng lớp. Anh ấy vào thăm nhạc sĩ Văn Cao và thấy tôi nên chào hỏi: “Ông bị bệnh gì?”. Tôi nói: “Tôi bị áp xe nên sốt”. Nhạc sĩ Văn Cao nghe vậy hỏi vọng: “Đứa nào đấy?”. Anh Văn Tâm trả lời: “Ông Hà Minh Đức”. Ông Văn Cao hỏi tiếp: “Phục binh à? Sao không xưng danh”. Tôi nói: “Có danh gì đâu mà xưng bác”.
Buổi đầu tiếp xúc là như thế, nhưng sau một vài ngày ở cùng phòng, tôi được nghe rất nhiều câu chuyện thú vị về vị nhạc sĩ tài hoa này. Mỗi ngày, bà Văn Cao đều vào thăm và chăm sóc chồng. Tuy đứng tuổi như bà vẫn giữ được vẻ đẹp thời con gái, dáng vẻ sang trọng của cô gái Hà Nội. Bà chăm sóc ông rất tỉ mỉ, cẩn thận thay áo cho ông. Thân hình ông Văn Cao khi ấy gầy gò, bộ ngực lép nhưng đôi mắt vẫn sắc sảo lắm, khuôn mặt mang những nét tìm ẩn của một tài năng. Bà chăm cho ông ăn, rồi dặn dò kỹ lưỡng đủ điều, lúc ra về lại nói: “Anh bớt uống rượu nhé, chiều em lại vào”.
Câu chuyện đầu tiên ông kể về bà là chuyện bà tham gia Tuần lễ vàng: “Dạo ấy, Cách mạng Tháng 8 thành công, tôi là vệ quốc quân, đầu đội mũ ca lô, quân phục giản dị mà gọn gàng, còn cô ấy là một cô tiểu thư nhà tư sản giàu có ở Hà Nội. Chúng tôi yêu nhau, ngẫm lại cũng không biết cô ấy yêu tôi vì lẽ gì. Tôi không phải người đẹp trai, tuy cũng có chút tài hoa, nhưng chắc sâu xa hơn là hai người hòa hợp về tính tình.
Một buổi sáng chủ nhật nọ, Hà Nội tổ chức Tuần lễ vàng, tôi rủ cô ấy đi dự và nhắc khẽ: “Chúng mình tham dự và cũng có đóng góp nhỏ cho đất nước. Chúng tôi đến Nhà hát Lớn và đến gần nơi tổ chức buổi lễ. Bàn thờ Tổ quốc trang trọng, thềm bước lên chỗ để hòm quyên tặng được trải thảm đỏ. Đứng lặng yên một lúc, tôi bảo quay sang bảo: “Mời em lên đi”. Cô ấy bước từng bước nhẹ nhàng, đến gần nơi thì quay xuống nhìn tôi như biết có người đang dõi theo. Cô khẽ nâng hai cánh tay lên, kéo nhẹ những vòng xuyến vàng đeo ở hai tay rồi bỏ vào hòm quyên góp. Ngừng một lát, cô ấy tiếp tục đưa tay lên cổ mở nhẹ, lấy chiếc dây chuyền vàng bỏ vào hòm công quyên tặng rồi lẳng lặng đi xuống.
Tôi mỉm cười nắm tay cô ấy, nói khẽ: “Cảm ơn em!”, rồi chúng tôi ra về. Sau này chúng tôi cưới nhau, trải qua nhiều năm tháng chung sống, gia đình êm ấm, tình yêu cũng ngày càng đằm thắm. Tôi nghĩ không có gì hạnh phúc vui sướng bằng một gia đình với tình yêu đằm thắm của vợ chồng. Có lẽ đó cũng là nguồn tạo cho tôi nhiều cảm xúc và cảm hứng trong sáng tạo… Đời tôi bên cạnh những vận may cũng có nhiều chuyện không hay vướng vào, những điều ấy khiến mình phải phận tâm, đôi khi còn bực bội nữa.
Như ở những năm Đổi mới, có ý kiến cho rằng bản “Quốc ca” do tôi sáng tác có nhiều điểm trùng lặp với bài “Quốc tế ca” và “Quốc ca của Pháp”, cần phải có một bản Quốc ca mới cho hợp với giai đoạn mới của đất nước XHCN. Thế là dạo ấy có hẳn một phong trào thi nhau sáng tác Quốc ca mới. Tôi cũng mong ước nếu có được một bản Quốc ca mới phù hợp hơn thì đó là niềm vui của tất cả mọi người. Nhưng nếu nêu lý do là bản Quốc ca cũ bị ảnh hưởng “Quốc tế ca” và “Quốc ca Pháp” thì tôi hoàn toàn bác bỏ.
Vì điệu nhạc nên các bài nhạc loại hành khúc thường trông giông giống nhau. Tôi sáng tác “Quốc ca” là dựa trên sức mạnh của đất nước, của dân tộc, đoàn quân Việt dù khó khăn vẫn vượt qua trong khúc Khải hoàn ca. Có thể một vài chữ trong bài hơi mạnh mẽ quá, gắn với không khí quyết liệt của thời điểm lịch sử, còn nhìn chung, về nhạc đó là một ca khúc thanh bình, một ca khúc chiến thắng".
Nghe lời ông nói, tôi nghĩ tới thời điểm mọi người hô hào nhau thay đổi Quốc ca. Khi ấy, nhiều bài Quốc ca mới được đăng báo, được trình diễn nhưng không bài nào được dư luận chấp nhận. Ở Trường Đại học Tổng hợp cũng có Giáo sư Đỗ Văn Khang cũng say mê sáng tác Quốc ca và luyện tập cho con cái, nhưng bài hát của ông cũng không được mọi người chấp nhận. Ông nói với tôi rằng: "Tôi đưa bản nhạc cho nhạc sĩ Nguyễn Đình Tấn xem hộ. Ông ấy bảo nhạc yếu còn lời thì hay. Tôi ví Việt Nam như một con tàu trên Thái Bình Dương, một hành lang đón gió nhìn ra biển chào đón gió bốn phương". Tôi hoan nghênh sự nhiệt tình của Giáo sư, nhưng đó cũng chỉ là sự hưởng ứng phong trào.
Ở Việt Nam mình bất cứ hiện tượng gì hấp dẫn cũng dễ tạo thành phong trào. Làm Quốc ca rất khó, hết sức khó, phải có tài và có thời điểm mới được quần chúng ủng hộ. Bởi Quốc ca chính là linh hồn của một dân tộc, thường gắn với một thời điểm lịch sử có ý nghĩa trọng đại.
Mỗi dân tộc đều có “Quốc ca” của riêng mình và có thể có nhiều Quốc ca qua từng chặng đường của lịch sử. Trên thế giới có bao nhiêu dân tộc thì có bấy nhiêu Quốc kỳ, Quốc ca. Có những Quốc ca rất nổi tiếng được nhiều người biết đến như Quốc ca Xô Viết, Quốc ca Pháp, Quốc ca Trung Quốc. Điều quan trọng nhất của một bản Quốc ca chính là được nhân dân yêu mến và thấm sâu vào đời sống của dân tộc. "Tiến quân ca" của nhạc sĩ Văn Cao gắn với Cách mạng Tháng Tám, với nền độc lập của dân tộc sau hàng trăm năm sống dưới ách nô lệ. Âm thanh lời hát của “Tiến quân ca” đã trở nên hết sức quen thuộc với quần chúng. Sau bao phản đối thì mọi nẻo đường đi lại trở về chỗ cũ, bản nhạc của nhạc sĩ Văn Cao vẫn trường tồn trong tâm hồn mọi người. Văn Cao - nhạc sĩ tài hoa lại vui mừng trước sự khẳng định giá trị của sáng tác để đời của mình.
Nhạc sĩ Văn Cao nói tiếp: "Tôi là tác giả Quốc ca, vì lẽ ấy mà bao nhiêu năm qua tôi phải chú ý giữ gìn tên tuổi, dù sao tên tuổi mình cũng gắn với một cái gì của đất nước, tuy nhỏ bé nhưng rất thiêng liêng. Ông cũng biết đấy, dân nghệ sĩ tài hoa thường anh nào trong đời chẳng có ba bốn cô xinh đẹp vây quanh. Còn tôi, tôi phải giữ gìn, một là để tên tuổi mình trong sạch, hai là với gia đình, phải xứng đáng với người vợ của mình".
Sau lần nằm viện ấy tôi không có điều kiện để được gặp lại ông nhưng trên truyền hình và báo chí, tên tuổi, tài năng của ông ngày càng được đề cao và tôn vinh. Văn Cao là một trong những người mở đầu cho dòng nhạc cách mạng. Ông có nhiều bài hát lãng mạn, mang mơ ước của thế hệ một thời. Những mơ ước lành mạnh ấy bắt gặp cách mạng tạo thành những nhạc khúc vừa có sức mạnh, niềm tin, vừa bay bổng, tạo nên nhiều giá trị to lớn. Bên cạnh những bài hát mang không khí hùng tráng của một thời, âm nhạc của Văn Cao đôi lúc cũng rất đằm thắm, dìu dặt như trong "Mùa xuân đầu tiên".
Nhạc sĩ Văn Cao ngoài tài năng thiên bẩm về âm nhạc còn là nhà thơ tài hoa với nhiều bài thơ độc đáo mang phong cách riêng. Ông cũng là một họa sĩ với những bức tranh đầy ấn tượng. Tôi có duyên may được ông trình bày cho bìa sách cuốn "Nam Cao, nhà văn hiện thực xuất sắc" do Nhà xuất bản Văn hóa in năm 1961. Bìa giản dị, đẹp, chữ sang trọng.
Anh Văn Tâm có lần khoe với tôi chân dung được Văn Cao vẽ tặng. Tôi nói với anh: "Các bậc tài hoa này nếu bớt đi tửu lượng thì có thể tài năng phát triển nhiều hơn chăng?". Anh lắc đầu: "Ông không hiểu rồi, những bài thơ hay nhất của Hoàng Trung Thông là viết trong lúc say. Đời say cho thơ thêm hay. Rượu tạo nên một sự lung linh đưa người nghệ sĩ ra khỏi cuộc đời thường và đến với những nẻo đường mơ hồ, lãng mạn với những phút thăng hoa". Tôi không nói gì thêm và nghĩ đến Văn Cao với chút kỷ niệm nhỏ về ông.
Xem thêm: “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao: 20 năm khải hoàn rực sáng
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận