Hồi ký của nhạc sĩ Văn Cao: “Tại sao tôi viết Tiến quân ca?”
Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù bọn đế quốc, với sự hào hứng chiến thắng của cách mạng. Bài “Tiến quân ca” đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó.
“Tại sao tôi viết Tiến quân ca?” là một bài viết hồi ký thuật lại lý do và quá trình nhạc sĩ Văn Cao sáng tác ca khúc “Tiến quân ca”. Không lâu sau đó, bài hát này của nhạc sĩ Văn Cao đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm quốc ca của nước Việt Nam độc lập tự chủ kể từ sau Cách mạng tháng Tám.
Dưới đây là nội dung chi tiết của hồi ký: Tại sao tôi viết Tiến quân ca?
Sau triển lãm Duy nhất năm 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.
Ba bức tranh sơn dầu của tôi, tuy được trưng bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh nhà Khai Trí Tiến Đức và được báo giới khen ngợi hết lời nhưng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa tại Hà Nội khó lòng thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi, nhưng cũng chẳng thấy anh nói đến việc trả tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó, dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng chưa từng được nhận tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn. Đối với cây bút trẻ, việc có tác phẩm đăng báo là một vinh dự. Người ta phải mua báo và còn mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, bạn bè thân thiết. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm, và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang đó không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ, Hà Nội lúc ấy đang đói.
Tin từ Hải Phòng truyền lên, cho biết mẹ và các em, các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa mấy đứa nhỏ từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường do loạn lạc đã để lạc mất đứa cháu gái con anh cả tôi. Tôi nhớ nó mới lên 3, đôi mắt nó giống như mắt mèo con, long lanh lắm. Có thể con bé nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi nhớ rõ năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả đống quần áo trên người. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn so với mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Tôi gặp lại đồng chí Vũ Quý, mấy năm qua anh vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như “Đống Đa”, “Thăng Long hành khúc”, “Tiếng rừng”,... Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ, rồi dắt nhau vào một hiệu ăn. Ở đây quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi diễn ra hết sức đơn giản.
“Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?”
“Được anh”
“Ngày mai bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng nhé!”.
Ngày hôm sau, anh Vũ Quý đưa tôi đến nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và cho quyết định về công tác. Đây là ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang và những ngày đói của tôi.
“Hiện nay trên chiến khu đang thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khóa quân chính kháng Nhật sắp mở, chú hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta”, anh Vũ Quý nói.
Tôi gật đầu suy nghĩ: “Phải làm như thế nào đây?”. Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ cố tìm một cái gì để viết, tìm ra âm thanh đầu tiên. Nhưng những con đường quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Lạ thay, hôm nay đường phố đông người hơn và lòng tôi cũng thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi chuẩn bị mạo hiểm hy sinh, chứ không chuẩn bị để quay lại sáng tác. Thật khó để tôi nghĩ tới nghệ thuật lúc này.
Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng, loang trên hồ mặt lạnh. Họ đang đun một thứ gì đó trong ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái khoảng lên ba, mắt nó giống như mắt mèo con, tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đứa bé ấy không có mảnh vải che thân, nó ngồi ở xa mắt thăm thẳm nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải là con cái của những người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc, nhưng không phải là cháu tôi. Cháu tôi nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường từ Nam Định đến Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay người đi. Đêm ấy về căn gác nhỏ tôi đã viết được nét nhạc đầu của bài “Tiến quân ca”.
Tôi không nhớ bài hát đã nằm tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy làn cây và một màn trời xám đó bao nhiêu này. Ở đây thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Tôi mất ngủ hàng đêm ở đây vì gió mùa luồn vào tung khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa và cả những tiếng gọi đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên, mẹ tôi và các em đã về quê và đang đói. Họ đang chật vật tìm mọi cách để sống sót qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, của các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, len lỏi cả vào giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đều đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang cố làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ được biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa được gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và cũng chẳng biết được họ hát như thế nào. Tôi đang ở đây nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được.
Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa...
Ngọn cờ đỏ sao vàng bay phấp phới giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát, mở đầu cho một tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than...
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những chiến sĩ áo chàm đang dồn bước mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp mở từ bản "Thăng Long hành khúc ca". "Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng" - Hay trong Đống Đa: "Tiến quân hành khúc ca/ Thét vang lừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài “Tiến quân ca” và tiếng thét ấy đã ở đoạn cao trào nhất của bài hát.
Tiến lên ! Cùng thét lên !
Chí trai là đây nơi ước nguyền !
Trên mặt bàn nơi tôi làm việc, tờ Cờ Giải Phóng đưa những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi khi ấy mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc tôi chưa một lần ghé đến. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười hài lòng của đồng chí Vũ Quý khi xem. Da mặt anh đen sạm. Nhưng đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh vô ngần. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi, khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát ấy. Thi nói với tôi:
“Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về mặt trận Việt Minh xem sao?”.
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi ánh lên tia sáng lạc quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt Phát xít" thì tôi mới viết xong bài “Chiến sĩ Việt Nam”. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt Phát xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng tôi cùng phụ trách.
Tháng 11 - 1944, tôi tự tay viết bài “Tiến quân ca” lên đá in, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc lập. Nét chữ khi ấy vẫn còn giữ lại nét chữ của một anh thợ mới vào nghề.
Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về Hà Nội. Qua một đoạn đường nhỏ, tôi chợt nghe tiếng đàn măng-đô-lin từ một căn gác vọng xuống, có người đang tập bản “Tiến quân ca”. Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động vô cùng. Sự xúc động ấy hơn tất cả những tác phẩm đã được ra mắt ở các rạp hát trước đây. Tôi nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi, đã được phổ biến. Có thể những người cùng khổ mà tôi đã gặp trên bước đường cùng khổ của tôi, lúc này đang cầm súng và đang ngân nga hát.
Tới lúc cần hành động, tôi lại bị ốm nặng và phải đưa vũ khí mà tôi giữ cho một đồng chí khác. Ngày 17-8-1945, tôi cố gắng đến dự cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Ngọn cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới. Bài “Tiến quân ca” đã nổ như một trái bom, vang dội khắp chốn. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi hàng ngàn giọng hát cất lên, vang theo những đoạn sôi nổi. Cánh tay áo mọi người nay đã đeo băng cờ đỏ sao vàng, thay cho băng vàng của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Ngày 19-8-1945, một cuộc mít tinh lớn diễn ra tại quảng trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên tiền phong hát "Tiến quân ca", chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi hết rồi. Nhớ lại cái buổi sáng tháng Tám ấy, nắng vàng rực rỡ, nhớ lại giọng hát của họ lẫn với giọng tôi, đứng chào dưới lá cờ cách mạng xúc động vô cùng. Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù bọn đế quốc, với sự hào hứng chiến thắng của cách mạng.
Bài “Tiến quân ca” đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó.
Xem thêm: Hồi ức về Trường ca "Sông Lô’’ của nhạc sĩ Văn Cao
5 chủ đề bạn cần biết mỗi tuần
Mỗi thứ Tư, bạn sẽ nhận được email tổng hợp những chủ đề nổi bật tuần qua một cách súc tích, dễ hiểu, và hoàn toàn miễn phí!
Bình luận